"Hành trình vạn dặm bắt đầu từ những bước đi đầu tiên"

せんりのみちもいっぽから

DANH NGÔN

Hành trình vạn dặm bắt đầu từ một bước chân - Lão Tử

Feb 29, 2024

Hành Trình Ký Ức + bài hát: Em giữ bếp hồng đợi anh




Nhân dịp mừng thượng thượng thọ cụ Thân sinh Bác Nguyễn Trọng Bằng CSV K10MC  phó Viện Trưởng Viện PTCN &GD(ITED)  Cụ Nguyễn Thưởng 90 tuổi
Kính Chúc cụ Luôn Mạnh Khỏe , Sống Vui , Trường Thọ

"Hành trình ký ức " là Lời tự sự thấm đẫm nước mắt và tình yêu , lòng tự hào giành cho đấng sinh thành của một người con hiếu thảo qua từng mốc lịch sử .

I. HÀNH TRÌNH KÝ ỨC

1. 1. Ba tôi sinh ngày 20 tháng Giêng năm Ất Hợi, ở một làng quê nghèo bên dòng sông Đáy, nay là Làng Đại Kỳ, xã Nghĩa Châu, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Ba mẹ tôi là người cùng làng.

   Ngày xưa làng tôi nghèo lắm, các cụ xưa còn lưu lai câu nói:“Tiền tam ngưu, hậu thất cuốc”, cả làng chỉ có 3 con trâu và 7 cái cuốc làm ruộng. Dân làng quanh năm đi cắt rơm rạ đốt thành tro bán lấy tiền sinh sống. Có một câu thơ nghe thật não lòng: “Giang sơn có một đội tro/ Đêm nằm tơ tưởng đi đò Đông Cao”. Đói nghèo là lý do duy nhất phải ly hương tìm đường sống!

 


2.   2. Từ những năm 1930 đến 1940, gần 1/3 dân làng tôi lên Mỏ kẽm Chợ Điền làm phu cho Pháp (nay thuộc xã Bản Thi, huyện Chợ Đồn, Bắc Cạn). Gia đình anh em ông bà nội, ngoại của tôi cũng nằm trong số đó.

 


 

3.   3. Nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã cướp đi bà nội và cụ nội tôi trong cùng 1 tháng. Ông nội tôi mới 37 tuổi, đội 2 vòng khăn tang trắng trên đầu một mình côi cút nuôi 4 con thơ dại. Khi ấy ba tôi hơn 11 tuổi, cô út mới lên 5.

 


4.  4. Tháng 3.1947, ba tôi cùng 5 người bạn tuổi 13, 14 được nhận vào làm việc tại Nha nghiên cứu kỹ thuật, Cục Quân giới, Bộ Quốc phòng tại núi Phia Khao, (Chợ Đồn, Bắc Cạn) do Giáo sư Trần Đại Nghĩa lãnh đạo. Ai dã từng đọc hồi ký “Gánh gánh…gồng gồng” của tác giả Nguyễn Xuân Phượng có nhắc đến sự kiện này.

 


5.  5. Đầu tháng 5.1954, ba tôi chuyển công tác lên Mỏ thiếc Tĩnh Túc Cao Bằng. Từ một cậu bé nghèo ít học, ba tôi đã học bổ túc văn hóa đến lớp 10 và học nghề hàn điện với chuyên gia Liên Xô, đạt bậc 5/7 khi chưa đến tuổi 25. Đồng thời, ông còn là cộng tác viên của Báo Lao động viết nhiều bài về phong trào thi đua xây dựng mỏ thiếc thời kỳ đó.

 


6.  6. Cuối năm 1956, ba tôi về quê và cưới mẹ tôi, một cô thôn nữ xinh đẹp. Cảm xúc về hạnh phúc lứa đôi được ba tôi ghi lại trong bài thơ Vu quy:

   “Nhớ ngày anh đến rước em/ Đường bậc thang buồn xóm nhỏ/

 Mưa dầm đường trơn đất lở/ Thương em ướt áo lấm quần/ Mẹ già

 héo hắt lá vàng/Mắt đọng giọt thương giọt nhớ/Em bước chân qua

 bậu cửa/ Còn lại mẹ với đồng sâu…” Thế rồi, đôi vợ chồng trẻ tạm

 biệt quê hương lên Mỏ thiếc Tinh Túc Cao Bằng, từ nơi đây bắt đầu

 xây dựng cuộc sống gia đình công nhân mỏ.

 


7.   7. Đến tháng 6.1963 theo tiếng gọi xây dựng Mỏ than Na Dương Lạng Sơn, ba mẹ tôi cùng rất nhiều gia đình công nhân Mỏ thiếc chuyển về Mỏ than. Lúc này, ba mẹ đã có 3 con, tôi lên 6, em Cường 3 tuổi và em Hải mới hơn 8 tháng. Tôi chỉ còn nhớ cả mấy gia đình công nhân và đồ đạc lỉnh kỉnh chất lên những chiếc xe tải cồng kềnh ì ạch đi mấy trăm cây số, mất mấy ngày đêm mới đến nơi – Khu tập thể công nhân mỏ tại xã Pò lọi, Lộc Bình, Lạng Sơn.



8. Ba mẹ tôi làm ở Xưởng cơ điện chuyên sửa chữa thiết bị khai thác than của Mỏ. Ba tôi là thợ hàn bậc 6/7, mẹ tôi là thợ đúc bậc 4/7. Tại đất Na Dương, 4 em tôi lần lượt chào đời. Đó là Long sinh năm 1965, Quỳnh sinh 1968, Dương sinh 1971 và út Giang sinh 1977.

Có một điều mà tôi không hiểu nổi: một gia đình công nhân với 7

 người con, sống trong thời bao cấp khó khăn chồng chất, nhưng ba

 tôi vẫn luôn say mê, sáng tạo trong chuyên môn và văn nghệ. Ông là

 Kiện tướng sáng kiến của Bộ Mỏ và Than nhiều năm, là tác giả ý

 tưởng thiết kế cầu vượt sông bằng dây cáp ở Đường Trường Sơn

 năm 1968. Đồng thời, còn là tác giả nhiều bài thơ, nhiều vở kịch.

 Đặc biệt là vở kịch Ké Dìn đã được giải Nhất của Bộ Mỏ và Than

 năm 1976. Vậy, nguồn năng lượng nào đã tạo nên cảm hứng và sáng tạo của ba tôi ?

 


9.   9. 16 năm trên đất Na Dương, tuổi thơ của anh em chúng tôi như bao con em gia đình công nhân mỏ đều lớn lên và trưởng thành, gắn liền với sự thăng trầm phát triển của Mỏ than và diễn biến của 2 cuộc chiến tranh chống Mỹ, chống Tàu. Đến tháng 6.1979, ba mẹ tôi được chuyển công tác về Xưởng cơ điện Mỏ than Bắc Thái, tại Làng Cẩm. Đến năm 1982, ba mẹ tôi nghỉ hưu và sinh sống tại đội 11 Hà Thượng, Đại Từ. Tháng 12.2000, ba mẹ tôi chính thức chuyển về sinh sống tại số nhà 11, tổ 17, phường Quang Trung cho đến nay.

 


  .  10. Trong bài thơ “Tự vấn”, ba tôi đã viết:

          Tôi viết bài thơ tự vấn mình

Chìm nổi một đời với nhục vinh

Họa khi đất gọi về bên ấy

          Có để được gì cho hậu sinh



 Trong kiếp sống này, chúng con thật sự may mắn và hạnh phúc được làm con của ba mẹ. Ba đã truyền lại một tình yêu và niềm đam mê sáng tạo không ngừng nghỉ trong KHCN và thi ca, còn mẹ luôn ấp ủ tình thương bao la và ý chí, nghị lực phi thường để chúng con thực hiện những ước vọng đó đến thành công. Đó là chân giá trị cao nhất mà ba mẹ để lại cho chúng con bảo tồn và phát triển ở những thế hệ tiếp theo!


Ngàn lần kính chúc ba mẹ hạnh phúc và bình an!

Nếu có một điều ước, chúng con mong được làm con của ba

 mẹ trong muôn kiếp nhân sinh!

Nguồn: Bác Nguyễn Trọng Bằng CSV K10MC  phó Viện Trưởng Viện PTCN &GD(ITED) - Nhân dịp mừng thượng thượng thọ Cụ Thân Sinh Nguyễn Thưởng là nhà thơ sáng tác lời cho ca khúc Em giữ Bếp Hồng Đợi Anh!



II. EM GIỮ BẾP HỒNG ĐỢI ANH
Em giữ bếp hồng đợi anh 
Nhạc sỹ : Quang Vĩnh,
Thơ : Nguyễn Thưởng
Ca sỹ:  NSUT Ngọc Hiên



MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG BUỔI LỄ:
UPDATE(Nguồn: Bác Nguyễn Trọng Bằng)







Trích dẫn  bài viết của TS nhà báo Đoàn Đức Phương (CA Thái Nguyên) đăng báo VN Hội Nhà văn VN về cụ Nguyễn Thưởng, nhân lễ mừng thọ 90 tuổi...


0 Post a Comment:

Post a Comment

Cảm ơn bạn đã chia sẻ ý kiến!
Chúc bạn có một ngày thật vui vẻ.

Kết nối bạn bè

Wikipedia

Search results

Video Nổi bật

Cảm ơn các bạn đã ghé thăm

 
Please Enable Javascript!Enable JavaScript